Quá trình nhũ hóa là cần thiết cho sự hình thành micellar và hấp thụ chất béo, vì vậy chất nhũ hóa ngoại sinh có thể tăng cường sử dụng trong khẩu phần ăn nhiều chất béo. Việc sử dụng chất nhũ hóa dinh dưỡng là một công cụ hữu hiệu để cải thiện khả năng tiêu hóa chất béo. Tác động tích cực của việc bổ sung các chất nhũ hóa như vậy rõ ràng hơn đối với chất béo tiêu hóa thấp hơn, nhưng cũng có thể quan sát thấy tác động tích cực đối với chất béo tiêu hóa cao (như dầu đậu nành).
QUÁ TRÌNH NHŨ HÓA DẦU ĐƯỢC THỰC HIỆN BỔ SUNG NĂNG LƯỢNG TRONG KHẨU PHẦN
Việc bổ sung các nguồn chất béo làm tăng mức năng lượng trong khẩu phần và do đó có hiệu quả sử dụng trong thức ăn. Tuy nhiên, cần phải xem xét rằng sự hấp thụ chất béo tăng lên theo tuổi của gia cầm, vì gà con có giới hạn sinh lý để hấp thụ chất dinh dưỡng đó. Những hạn chế sinh lý đó của hệ tiêu hóa của gia cầm có thể được khắc phục bằng cách sử dụng các chiến lược nội sinh hoặc ngoại sinh để tối đa hóa quá trình tiêu hóa và hấp thụ thức ăn. Việc sử dụng chất nhũ hóa trong thức ăn đã được chứng minh là một công cụ để cải thiện việc sử dụng chất béo ở gia cầm (Roy và cộng sự, 2010). Việc bổ sung chất nhũ hóa tổng hợp vào khẩu phần ăn của gà thịt là một thực tế gần đây so với các chất bổ sung khẩu phần ăn khác. Phương thức hoạt động của chất nhũ hóa là làm tăng bề mặt hoạt động của chất béo, cho phép hoạt động của lipase thủy phân các phân tử chất béo trung tính thành axit béo và monoglycerid và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các micelle bao gồm các sản phẩm phân giải lipid. Đây là một bước cần thiết cho sự hấp thụ lipid, vì nó tạo ra một gradient khuếch tán làm tăng khả năng hấp thụ. Zhang và cộng sự, 2011 phát hiện ra rằng việc bổ sung chất nhũ hóa trong khẩu phần ăn sẽ kích thích sự hình thành các giọt nhũ tương hỗ trợ khả năng tiêu hóa chất béo.
Năng lượng là một thành phần chi phí chính trong khẩu phần ăn cho động vật có năng suất cao. Do mật độ năng lượng cao, chất béo và dầu là nguồn năng lượng quan trọng trong công thức thức ăn chăn nuôi. Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng của các nguyên liệu thô này rất được quan tâm trên quan điểm kinh tế. Chất nhũ hóa dinh dưỡng có thể được sử dụng để cải thiện khả năng tiêu hóa chất béo và do đó cải thiện hiệu quả năng lượng. Điều này sẽ dẫn đến chi phí thức ăn thấp hơn và góp phần vào chăn nuôi gia cầm bền vững và kinh tế hơn.
THÍ NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ
Thí nghiệm được thực hiện với 144 con gà thịt Vencobb được phân bố ngẫu nhiên thành bốn nhóm A, B, C và D với ba lần lặp lại. Tất cả gà con được bố trí sàn, khay cho ăn và máng uống đồng nhất và được nuôi trong các điều kiện quản lý tiêu chuẩn trong suốt thời gian thí nghiệm là 42 ngày. Nhóm A là đối chứng được cho ăn theo khẩu phần ăn cơ bản, nhóm B (khẩu phần ăn cơ bản + nhũ hóa 150 g/tấn), nhóm C (khẩu phần ăn cơ bản trừ 50 Kcal ME + nhũ hóa 150 g/tấn) và nhóm D (khẩu phần ăn cơ bản trừ đi 100 Kcal ME + nhũ hóa 150 g/tấn). Dữ liệu và các thông số sinh hóa huyết thanh viz., SGPT, SGOT, Protein toàn phần, Albumin và Glubulin được ước tính ở ngày tuổi thứ 42. Gà thịt được cho ăn theo khẩu phần ăn ít năng lượng có chứa chất nhũ hóa dẫn đến hiệu suất tương đương với khẩu phần ăn giàu năng lượng. Điều này có nghĩa là chất nhũ hóa dinh dưỡng có thể được sử dụng để cải thiện khả năng tiêu hóa chất béo và do đó cải thiện hiệu quả năng lượng bằng cách duy trì sự tăng trọng của cơ thể, lượng thức ăn và chất lượng thân thịt. Về tác động của chất nhũ hóa đối với khẩu phần ăn năng lượng thấp trong nghiên cứu hiện tại, khẩu phần ăn năng lượng thấp 50 Kcal/ kg được cho là tốt hơn khẩu phần ăn năng lượng thấp 100 Kcal/ Kg về trọng lượng tổng thể, lượng thức ăn và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn. Không có thay đổi đáng kể về phần trăm chất béo ở bụng và các cơ quan nội tạng, phần trăm trọng lượng gan, tim và lá lách của gà thịt được cho ăn khẩu phần ăn chứa ít năng lượng có bổ sung chất nhũ hóa. Ngoài ra, SGPT, SGOT, Protein tổng số, Albumin và Globulin trong huyết thanh ở gà thịt ở cuối ngày tuổi thứ 42 không bị thay đổi. Chi phí trung bình của thức ăn cho giai đoạn sơ khai, khởi động và hoàn thiện cho nhóm A, B, C và D là 25.98; 26.12; 25.71 và 25.32. Chi phí khẩu phần ăn cho gà thịt ở nhóm C và D giảm là do giảm mức dầu để tạo ra khẩu phần năng lượng thấp hơn so với nhóm A và B. Do ảnh hưởng của lượng thức ăn ăn vào giữa các nhóm năng lượng thấp, chi phí cho ăn của gà thịt ở nhóm C thấp hơn 0.55 và cao hơn ở nhóm D là 1.84. Những con gà thịt ở nhóm D này tiêu thụ nhiều thức ăn hơn để bù đắp mức năng lượng so với nhóm C. Điều này chỉ ra rằng mức bổ sung của chất nhũ hóa ở mức năng lượng thấp 50 Kcal/ Kg (nhóm C) được cho là kinh tế hơn so với nhóm ăn ít năng lượng hơn 100 Kcal/ Kg (Nhóm D). Chi phí bổ sung dầu và chất nhũ hóa trong nhóm B, C và D là 1.53; 1.01 và 0.57 cho mỗi Kg thức ăn. Các khẩu phần giảm năng lượng được chế tạo với ít dầu cám gạo hơn và do đó có chi phí công thức thấp hơn đáng kể. Điều này khẳng định rằng việc bổ sung chất nhũ hóa có thể là một công cụ thiết thực cho các chuyên gia dinh dưỡng gà thịt để giảm chi phí thức ăn. Lợi nhuận ròng trên mỗi kg gà thịt cao hơn ở nhóm C (10.71 Rs), tiếp theo là nhóm D (9.71 Rs), nhóm B (9.93 Rs) và Nhóm A (9.21 Rs). Điều này tạo cơ hội xây dựng khẩu phần ăn với mức năng lượng thấp hơn, mà không ảnh hưởng đến năng suất, dẫn đến chi phí thức ăn thấp hơn và sản xuất gà thịt tiết kiệm.
PHẦN KẾT LUẬN
Gà thịt được cho ăn theo khẩu phần ăn ít năng lượng có chứa chất nhũ hóa sẽ cho hiệu quả tương đương với khẩu phần ăn giàu năng lượng. Điều này có nghĩa là chất nhũ hóa dinh dưỡng có thể được sử dụng để cải thiện khả năng tiêu hóa chất béo và do đó cải thiện hiệu quả năng lượng bằng cách duy trì sự tăng trọng của cơ thể, lượng thức ăn và chất lượng thân thịt. Đối với tác động của chất nhũ hóa đối với khẩu phần ăn năng lượng thấp trong nghiên cứu hiện tại, khẩu phần ăn năng lượng thấp 50 Kcal/ kg được cho là tốt hơn khẩu phần ăn năng lượng thấp 100 Kcal/ Kg về trọng lượng cơ thể tổng thể, lượng thức ăn và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn. Không có thay đổi đáng kể về phần trăm chất béo và các cơ quan nội tạng, phần trăm trọng lượng gan, tim và lá lách của gà thịt được cho ăn khẩu phần ăn chứa ít năng lượng có bổ sung chất nhũ hóa. Ngoài ra, SGPT, SGOT, Protein tổng số, Albumin và Globulin trong huyết thanh ở gà thịt ở cuối ngày tuổi thứ 42 không bị thay đổi. Mức bổ sung của chất nhũ hóa ở mức năng lượng thấp 50 Kcal/ Kg (nhóm C) được cho là kinh tế hơn so với nhóm ăn ít năng lượng hơn 100 Kcal/ Kg (Nhóm D). Chi phí bổ sung dầu và chất nhũ hóa trong nhóm B, C và D là 1.53; 1.01 và 0.57 cho mỗi Kg thức ăn, tương ứng. Lợi nhuận ròng trên mỗi kg gà thịt cao hơn ở nhóm C (10.71 Rs), tiếp theo là nhóm D (9.71 Rs), nhóm B (9.93 Rs) và Nhóm A (9.21 Rs).
Theo: Effect of Emulsifier “Emulso V” on production performance of broilers